Sinh Trắc Dấu Vân Tay – Những cột mốc đáng nhớ!!!

Dấu vân tay là dấu ấn riêng của mỗi người, không ai giống ai. Nên từ thời cổ đại xa xưa, con người đã biết ứng dụng nó trong nhiều lĩnh vực. Bắt đầu từ thập niên 60, lĩnh vực nghiên cứu về vân tay được hình thành và đặt nền móng cho những bước đầu tiên của ngành khoa học Sinh Trắc Dấu Vân Tay.

Sau đây chúng ta cùng điểm qua những cột mốc lịch sử trong suốt chiều dài hơn 200 hình thành và phát triển của ngành.

Trung Quốc Cổ đại: Các thương nhân sử dụng dấu ấn trên các ngón tay cái trong việc giao dịch.

Năm 1685:Tiến sĩ Bidloo công bố tấm bản đồ giải phẫu, minh họa các chỉ số của con người có liên quan đến thái độ sống.

Năm 1686: Tiến sĩ Marcello Malphigi (1628-1694) đưa ra luận thuyết về các loại vân tay: xoắn, móc, vòm trong dấu vân tay (Whorl, Loop, Arch).

Năm 1788: J.C.Mayer là người đầu tiên đưa ra thuyết cơ bản về phân tích vân tay và giả thuyết rằng nó là duy nhất.

Năm 1823: Tiến sĩ Jan Purkinje phân loại những chủng vân trên các đầu ngón tay thành 9 loại: arch, tented arch, ulna loop, radial loop, peacock’s eye/compound, spiral whorl, elliptical whorl, circular whorl, and double loop/composite.

Năm 1823: Joannes Evangelista Purkinji tìm thấy các mô hình và hình dạng của ngón tay bắt đầu hình thành ở khoảng tuần thứ 13 của thai nhi trong bụng mẹ.

Năm 1832: Tiến sĩ Charles Bell (1774-1842) là một trong những bác sĩ đầu tiên kết hợp khoa học nghiên cứu giải phẫu thần kinh với thực hành lâm sàng. Ông xuất bản cuốn The Hand: Its Mechanism and Vital Endowments as Evincing Design.

Năm 1880, Tiến sĩ Henry Fauls đưa ra lý thuyết gen vân tay.

Francis Galtons

Năm1893 Francis Galtons (cháu của Charles Darwin) là người đầu tiên phát hiện vai trò của vân tay trong lĩnh vực di truyền và sự khác biệt của chúng ở những chủng tộc khác nhau. Ông đã đơn giản hoá việc phân loại vân tay và chia vân tay thành 3 loại lớn: Vân  sóng (không có tam giác điểm), vân móc (có 1 tam giác điểm), vân xoáy (có 2 tam giác điểm).

Năm 1897: Harris Hawthorne Wilder là người Mỹ đầu tiên học về Dermatoglyphics. Ông đã phát minh ra chỉ số Main Line, nghiên cứu thenar hypothenar eminencies, khu II, III, IV.

TS Harold Cummins

Năm 1926 Tiến sĩ Harold Cummins được xem là cha đẻ của ngành nghiên cứu khoa học dấu vân tay đưa ra lí luận chỉ số cường độ vân tay PI (Pattern Intensity).Giá trị RC, số lượng tam giác điểm, hình dạng vân tay, và vị trí của nó có liên quan đến tiềm năng và trí tuệ của con người. Ông nghiên cứu ra rằng dấu vân tay được hình thành đồng thời với sự hoàn thiện các cấu trúc của não bộ. Nó được khởi tạo ở thai nhi vào giai đọan từ 13 đến 19 tuần tuổi. Vào giai đọan trước đó, thai nhi không có dấu vân tay đồng thời não bộ cũng chỉ trong giai đoạn hình thành. Khi thai nhi được 19 tuần tuổi cũng là lúc các vùng chính của não hình thành bao gồm cả vỏ đại não.

Năm 1944: Tiến sĩ Tâm lý phân tích Julius Spier Chirologist xuất bản cuốn sách “Bàn tay của trẻ em”. Ông đã khám phá một số điểm đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển tâm sinh lý, chẩn đoán sự mất cân bằng và các vấn đề trong khu vực này từ các mô hình của bàn tay.

Năm 1957: Tiến sĩ Walker sử dụng các cấu hình da trong chẩn đoán Hội chứng Down.

Noel Jaquin

Năm 1958, Noel Jaquin phát hiện tính cách của con người qua so sánh các loại chủng vân khác nhau.

Năm 1968: Sarah Holt nghiên cứu mô hình các vân tay của cả hai bàn tay và lòng bàn tay ở các dân tộc khác nhau cả về đặc tính bẩm sinh và sự tác động của môi trường.

Năm 1969: John J. Mulvihill, MD và David W. Smith, MD xuất bản cuốn “Thiên tài qua Vân tay”, cung cấp phiên bản mới nhất về sự hình thành của các dấu vân tay.

Năm 1970: Liên Xô sử dụng Sinh trắc vân tay trong việc lựa chọn thí sinh cho Thế vận hội Olympic.

Năm 1976: Schaumann nghiên cứu các chỉ số trên các đầu ngón tay của những người bệnh tim bẩm sinh, ung thư, bệnh bạch cầu, bệnh tâm thần phân liệt…. nghiên cứu được hướng vào nghiên cứu di truyền và chẩn đoán của các khuyết tật nhiễm sắc thể.

Năm 1980: Trung Quốc thực hiện công trình nghiên cứu tiềm năng con người, trí thông minh và tài năng trong vân tay và gen của con người.

Năm 1985: Tiến sĩ Chen Yi Mou – Đại học Havard nghiên cứu tổng hợp các lý thuyết về Dermatoglyphics (Sinh trắc vân tay) – Thuyết Split Brain – Thuyết đa thông minh, mở đường cho ứng dụng môn khoa học này trong việc xác định tiềm năng và tính cách bẩm sinh của một người.

Năm 1986, TS Rita Levi-Montalcini và TS Stanley Cohen đồng nhận giải Nobel cho công trình NGF ~ EGF(Chỉ số phát triển tế bào thần kinh ~ Chỉ số phát triển biểu bì), mở đường cho việc hướng nghiên cứu đo mật độ tế bào não qua mật độ tế bào da.

Năm 2000: Tiến sĩ Stowens – Giám đốc Bệnh viện St Luke ở New York tuyên bố để có thể chẩn đoán tâm thần phân liệt và bệnh bạch cầu với độ chính xác hơn 90%. Tại Đức, Tiến sĩ Alexander Rodewald tuyên bố có thể xác định khuyết tật bẩm sinh tương đương với độ chính xác 90%.

Năm 2004: Trung tâm IBMBS (Trung tâm Sinh trắc học Xã hội và Hành vi ứng xử quốc tế) đã xuất bản hơn 7000 luận án về Sinh trắc vân tay. Ngày nay, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia…. áp dụng nó trong các lĩnh vực giáo dục, hi vọng sẽ cải thiện chất lượng giảng dạy và nâng cao hiệu quả học tập bằng cách xác định các phong cách học tập khác nhau. Các nhà nghiên cứu khẳng định độ chính xác của phương pháp này rất cao, đó là khả năng dự báo từ các tính năng của tay.

Nếu bạn đang quan tâm đến lĩnh vực này mà chưa biết làm sinh trắc dấu vân tay ở đâu thì hãy liên hệ ngay với chúng tôi để nhận được sự tư vấn miễn phí và hỗ trợ tốt nhất.

Nguồn: Sưu tầm

Giaoducgoldkids biên soạn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *